Tăng cường năng lực lãnh đạo thông qua TWI
Nguyên tắc làm nền móng cho TWI là tạo ra “tác động nhân văn”. Mục đích là phát triển một cách thức được chuẩn hóa, rồi đào tạo những người sử dụng cách thức, để sau đó họ tập huấn những người khác.
“Hiệu suất lao động của Việt Nam thuộc hạng đáy khu vực”, đó là bài viết của tác giả Dũng Hiếu đăng trên báo Vneconomy ngày 24/08/2012. Điều đáng báo động này là có thật, và chính là kết quả của đề tài khảo sát “Thiếu hụt cần lao kỹ năng ở Việt nam” do Viện Khoa học lao động và xã hội (thuộc Bộ cần lao- Thương binh- Xã hội) kết hợp cùng Tập đoàn Manpower thực hiện trên 6000 tổ chức của 9 lĩnh vực kinh tế ở 9 tỉnh giấc, đô thị Việt Nam.
Liệu vấn đề thiếu hụt kỹ năng có thể được giảm thiểu và giải quyết nhờ các điều kiện sau đây không:
- Nếu doanh nghiệp có thể nhân bản một cách nhanh chóng và kiên cố khả năng tay nghề của những viên chức có tay nghề cao nhất mà công ty có?
- giả dụ mọi công ty đều làm như vậy để tự cung cấp đầy đủ viên chức có kỹ năng tay nghề cho chính mình?
- Nếu những nhân viên có tay nghề cao này có thể tự nhân văn chính mình và thêm vào nữa là biết cách cải tiến cách thức làm việc để tăng hiệu suất, biết cách hướng dẫn đồng nghiệp để làm những điều này?
Để làm được những việc trên chúng ta rất cần các doangh nhân Việt Nam khởi động phong trào này.
Khả năng ứng dụng TWI tại Việt Nam
Nền kinh tế Việt Nam được kiểm tra có mức độ tăng trưởng cao. Những khó khăn ban đầu vì thiếu công nghệ, máy móc hiện đại đã giảm dần. Chúng ta đang đón chào các ngành công nghiệp đòi hỏi sự chính xác trong việc ứng dụng các quy trình công nghệ mới. Chúng ta có thể nhận được sự chỉ dẫn trong thời đoạn đầu . Nếu việc chuyển giao không hoàn hảo thì cả công trình đầu tư phải chịu đựng rất nhiều rủi ro. Làm sao có thể nắm bắt dduocj mau chóng công nghệ mới? JIT cung cấp trả lời chuẩn y khả năng phân tích công việc và nhận diện các điểm chính.
Sau này, khi điều kiện sinh sản hoặc có sự thay đổi trong thiết kế sản phẩm, làm thế nào để điều chính phương pháp cho ăn nhập với đề xuất đổi thay ? JMT cung cấp giải pháp chuẩn y khả năng phân tách phương pháp và sự thân thuộc với công nghệ sử dụng vì đã có sự hiểu biết đủ sâu rộng để cải tiến một cách có hiệu quả.
JRT, ngoài việc xây dựng nền tảng cho cấp quản lý và viên chức, còn tạo ra một văn hóa “Dân chủ cơ sở” vì nó được đặt trên nền móng tôn trọng lẫn nhau và “đối xử với mỗi người như một cá nhân “. JRT giúp các cấp quản lý sử dụng cách thức “giải quyết vấn đề dựa trên sự kiện của cảnh huống”.
TWI là dụng cụ bảo đảm hiệu suất và chất lượng tại nơi giao dịch với khách hang, trong sưởng sinh sản hay tại văn phòng. Các năng khiếu hướng dẫn , cải tiến phương pháp và xây dựng tương quan con người và giải quyết các vấn đề phải qua tập sự duwois sự kèm dẫn của huấn luyện viên làm nghề.
Để tạo ra phản ứng dây truyền, việc áp dụng chương trình TWI phải được doanh nghiệp có quy củ và phổ biến trong ngành công nghiệp đòi hỏi được kiểm soát nghiêm trang
Trong một doanh nghiệp, các chương trình đào tạo chỉ được cung cấp khi có sự cam kết của lãnh đạo cấp cao và khi mục tiêu huấn luyện đã được khai triển xuống các bộ phận. Khác với các chương trình huấn luyện quản lý khác, mục tiêu đào tạo của TWI không được miêu tả dưới dạng tiến độ và đánh giá khả năng của đào tạo viên hay độ thích hợp của nội dung tập huấn, mà là sự thay đổi trong thành tựu kinh doanh đạt được sau một thời kì nhất thiết, như tỉ lệ giảm thiểu khuyết thiếu , chừng độ cải thiện hiệu suất, giảm thiểu tai nạn, ô nhiễm……..
Dù rằng bất cứ một quản lý nào cũng có thể học và sử dụng được ba năng khiếu quản lý từ TWI, nhưng không phải ai cũng được tập huấn thành đào tạo viên của ba chương trình này. Chỉ những người đã tốt nghiệp xuất nhan sắc về ứng dụng các năng khiếu trong công tác quản lý của mình mới được chọn lựa để được tập huấn thành huấn luyện viên.
Rút kinh nghiệm với việc phổ thông vận dụng bộ Tiêu chuẩn Hệ thống Quản lý chất lượng ISO 9000 năm 1995 ở Việt Nam và rút kinh nghiệm giới thiệu, ứng dụng TWI tại Nhật Bản, một số điều kiện cần yếu cho việc áp dụng có hiệu quả TWI tại Việt Nam có thể được nhận biết:
- TWI là phương tiện ảnh hưởng phát triển nhân sự cho công tác đòi hỏi tay nghề cụ thể và đặc biệt cho từng doanh nghiệp trong các ngành nghề khác nhau
- Khi được coi là một chương trình cấp quốc gia rồi, cần một cơ quan quản lý cấp Bộ hoặc VỤ có thể yêu cẫu hỗ trợ kỹ thuật từ Bộ lao động Nhật MITI.
- Các kỹ năng đọc được từ TWI sẽ không mang lại thành tựu nếu không có sự cam kết và cung cấp nguồn lực của lãnh đạo doanh nghiệp.
- Đội dự án (Project Team) phải được thành lập để tiến hành việc biên soạn thảo cẩm nang huấn luyện và đào tạo các chuyên gia “Phát triển chương trình” để làm việc với lãnh đạo các doanh nghiệp muốn khai hoang ích lợi của TWI.
Đây chính là những then chốt cho sự phát triển tổ chức.
Kỷ yếu ngày nhân sự Việt Nam
Nguyễn Thị Vân
trọng tâm hiệu suất Việt Nam
Bùi Hồng Cẩm
Hội TWI Việt Nam
Cho thuê lại lao động, những vấn đề cần lưu ý
Định nghĩa cho thuê lại lao động (labour outsourcing) khá phổ thông trên thế giới từ nhiều thập kỷ qua.
Ngay cả một số nước trong khu vực như Thái Lan, Singapore, Malaysia, Philippines, hoạt động cho thuê lại cần lao (cho thuê lại cần lao) cũng đã phát triển khá chuyên nghiệp. Bên cạnh đó, ở Việt Nam, hoạt động này vẫn còn khá mới mẻ vì Bộ luật cần lao hiện hành chưa có quy định điều chỉnh.
Xét một cách toàn diện thì hoạt động cho thuê lại lao động mang lại rất nhiều lợi ích cho doanh nghiệp.
Thứ nhất, hoạt động cho thuê lại cần lao giúp cung cấp đầy đủ và kịp thời số cần lao có tay nghề cấp thiết cho các doanh nghiệp có hoạt động sinh sản, kinh doanh đặc thù hay theo thời vụ, giúp các công ty này đỡ mất thời gian và tổn phí tuyển dụng , tập huấn . Khi hết nhu cầu lao động thì tổ chức đi thuê lại lao động có thể cắt giảm mau chóng số lượng lao động theo hiệp đồng cung cấp dịch vụ với tổ chức cho thuê lại cần lao mà không bị ràng buộc bởi các quy định của luật pháp cần lao.
Nói một cách khác, hoạt động cho thuê lại cần lao giúp cho các doanh nghiệp chuyển tổn phí lương từ định phí (fixed cost) sang biến chi phí (variable cost), giảm thiểu các rủi ro pháp lý ảnh hưởng đến việc cho nghỉ việc hay sa thải người lao động trái pháp luật, cho phép doanh nghiệp giảm thiểu các phí lớn trong giai đoạn đầu phát triển cũng như tụ họp vốn cho các hoạt động sinh sản - kinh doanh khác.
Thứ hai, hoạt động cho thuê lại cần lao cũng có thể giúp cho đơn vị đi thuê lại lao động hấp dẫn hơn trong mắt các nhà đầu tư, đặc biệt là các quỹ đầu tư nước ngoài hay các đối tác kinh doanh chiến lược, vì họ có thể đổ vốn trực tiếp vào các hoạt động tạo ra doanh thu của doanh nghiệp mà họ tham gia đầu tư.
Thứ ba, hoạt động cho thuê lại cần lao cũng tạo sự dễ dàng cho các doanh nghiệp thay thế những viên chức không phù hợp bằng các nhân sự khác vào các vị trí chủ chốt để đảm bảo hoạt động hiệu quả.
Bên cạnh đó, hoạt động cho thuê lại cần lao cũng có những bất lợi. Thứ nhất, những lao động của công ty cho thuê lại lao động sẽ không có động lực cao để phấn đấu tăng hiệu suất cần lao hay sáng tạo kỹ thuật phục vụ cho lợi ích của công ty đi thuê lại cần lao vì họ không phải là lao động chính thức của tổ chức. Tính chất lao động bấp bênh cũng khiến họ mất đi định hướng phát triển nghề nghiệp.
Thứ hai, các cơ quan quốc gia thường có xu hướng cho rằng các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài muốn cắt giảm chi phí lương để đối phó với việc nhà nước thường xuyên tăng mức lương tối thiểu cho những lao động làm việc cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bằng cách (lách luật) thuê lại cần lao của các tổ chức cung cấp dịch vụ cho thuê lại lao động (thường là các công ty trong nước) mà các đơn vị này lại được ứng dụng mức lương tối thiểu thấp hơn so với các đơn vị có vốn đầu tư nước ngoài.
Chả hạn, mức lương đối với các tổ chức có vốn đầu tư nước ngoài hiện nay là 920.000 đồng/tháng trong khi đối với tổ chức ngoài quốc doanh trong nước chỉ là 650.000 đồng/tháng.
Bên cạnh đó, do nhu cầu khá lớn của các tổ chức có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, đặc biệt là các công ty dầu khí, sản xuất hàng tiêu thụ, dệt may,… nên hoạt động cho thuê lại lao động đã phát triển một cách tự phát. Các công ty cung cấp dịch vụ cho thuê lại cần lao thường chẳng thể xin được giấy chứng thực đăng ký kinh doanh cho ngành nghề này. Thành thử, họ linh động bổ sung chức năng hoạt động sao cho phù hợp với hoạt động kinh doanh đã đăng ký của khách hàng cần lao động rồi trực tiếp đi thuê mướn lao động để cung cấp.
Hoạt động cho thuê lại lao động của các đơn vị này trình bày khá nhiều rủi ro cho các chủ công ty vì: 1. Ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh cho thuê lại cần lao chưa được pháp luật Việt Nam xác nhận; 2. Các phí lương khá lớn phát sinh có liên quan đến việc thuê mướn cần lao phục vụ đề nghị của khách hàng tại từng thời điểm có khả năng sẽ không được xem là chi phí hợp lý, hợp lệ của công ty vì các chi phí này không trực tiếp phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh đã đăng ký; 3. Các biện pháp kỷ luật lao động, bao gồm việc sa thải hay đơn phương chấm dứt hợp đồng cần lao sẽ gặp nhiều khó khăn hoặc không thể thực hiện được vì những lao động này trên thực tại không vi phạm nội quy cần lao của đơn vị cho thuê lại lao động nhưng lại vi phạm nội quy lao động của công ty đi thuê lại cần lao.
Hoạt động cho thuê lại lao động tại Việt Nam hiện giờ đã được triển khai một cách không chính thức phục vụ cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài dưới hai hình thức chính: 1. Người lao động cho thuê lại sẽ báo cáo trực tiếp cho đơn vị đi thuê lại cần lao, và tổ chức cho thuê lại lao động sẽ đảm nhiệm việc sắp đặt việc làm, giám sát việc cần cù, tuân thủ nội quy và trả lương cho người cần lao trong khi công ty đi thuê cần lao sẽ giám sát việc thực hiện các công tác hàng ngày được giao cho người lao động; 2. Tổ chức cho thuê lại lao động sẽ chịu nghĩa vụ toàn bộ các đề nghị về lao động cũng như nhu cầu cho sản xuất kinh doanh và người cần lao của đơn vị cho thuê lại cần lao sẽ đảm nhận các phòng ban quản lý do đơn vị cho thuê lại cần lao tuyển dụng và thành lập.
Gần đây, Bộ lao động - Thương binh và Xã hội đã cấp giấy phép cho một đơn vị nước ngoài chuyên cung cấp dịch vụ cho thuê lại lao động với chức năng kinh doanh là nhận khoán việc với các đơn vị có nhu cầu trong một số lĩnh vực đặc thù như sản xuất công nghiệp, khách sạn, văn phòng, dịch vụ vui chơi giải trí và dịch vụ quản lý bất động sản; dịch vụ kinh doanh vui chơi, tiếp thị. Đây có thể được xem là một trong những bước thử nghiệm ban sơ để tiến tới việc bổ sung, sửa đổi Bộ luật cần lao hiện hành nhằm chính thức đưa hoạt động thiết thực này vào trong sự quản lý của nhà nước như là một trong những ngành nghề kinh doanh có điều kiện, na ná như hoạt động giới thiệu việc làm.
Dự thảo lần thứ 2 của Bộ luật cần lao bổ sung, sửa đổi đang được Bộ lao động - Thương binh và Xã hội đưa ra lấy quan điểm của các ban ngành có ảnh hưởng, phần về dịch vụ cho thuê lại lao động được dành hẳn một mục riêng. Một vài điểm quan yếu trong dự thảo là dịch vụ cho thuê lại cần lao được xem là loại hình kinh doanh có điều kiện, chỉ có một số danh mục công việc là được vận dụng hình thức cho thuê lại cần lao và công ty cho thuê lại lao động phải ký hiệp đồng lao động có xác định thời hạn từ 12 tháng trở lên đối với người cần lao được cho thuê lại.
Bên cạnh đó, hoạt động cho thuê lại cần lao sẽ làm thay đổi cơ bản mối quan hệ cần lao truyền thống được quy định trong Bộ luật lao động hiện hành. Theo đó, người cần lao và người sử dụng cần lao phải ký hợp đồng cần lao trực tiếp, nên với chỉ mội vài điều luật như trong dự thảo Bộ luật lao động bổ sung, sửa đổi thật sự vẫn chưa đủ mà cần có thêm nhiều quan điểm đóng góp của các chuyên gia, công ty…
Quantri.Vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét